1. Tăng mức phạt tiền tối đa của nhiều lĩnh vực xử phạt vi
phạm hành chính. Cụ thể:
-
Giao thông đường bộ; Phòng, chống tệ nạn xã hội: từ 40 triệu lên 75 triệu đồng;
-
Cơ yếu, Giáo dục; Quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia: từ 50 triệu lên 75
triệu đồng;
-
Điện lực: từ 50 triệu lên 100 triệu đồng;
-
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: từ 100 triệu lên 200 triệu đồng;
-
Báo chí: từ 100 triệu lên 250 triệu đồng;
-
Kinh doanh bất động sản: từ 150 triệu lên 500 triệu đồng.
2. Bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực.
Bao gồm:
- Tín ngưỡng; Đối ngoại: 30 triệu đồng;
-
Cứu nạn, cứu hộ: 50 triệu đồng;
-
In; An toàn thông tin mạng: 100 triệu đồng;
-
Sở hữu trí tuệ: 250 triệu đồng.
3. Tăng thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Thời
hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Luật XLVPHC năm 2012 bao gồm
cả thứ 7, chủ nhật, ngày nghỉ lễ, tết nên thời gian rất ngắn, gây khó khăn cho
người xử phạt nhất là lập biên bản vào ngày cuối tuần, ngày nghỉ lễ, tết.
Vì
thế, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 đã sửa đổi theo hướng từ tính “ngày”sang “ngày làm việc” và tăng thời hạn xử phạt đối với trường hợp phải
chuyển hồ sơ, cụ thể:
-
Đối với vụ việc thông thường, thời hạn ra quyết định xử phạt là 07 ngày làm
việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải
chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt
là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính;
-
Đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình hoặc phải xác định giá trị tang
vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm hoặc phải xác
minh các tình tiết có liên quan thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 01
tháng, kể từ ngày lập biên bản;
-
Đối với vụ việc thuộc trường hợp phải giải trình hoặc phải xác định giá trị
tang vật, phương tiện, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, xét nghiệm hoặc phải
xác minh các tình tiết có liên quan mà đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình
tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì thời
hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 02 tháng, kể từ ngày lập biên bản.
4. Thay đổi thời hiệu xử phạt một số lĩnh vực
Trước
đây, chỉ hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền thuế, khai
thiếu nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về thuế. Tuy nhiên, theo Luật mới, tất cả vi phạm hành chính về thuế
thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý
thuế.
5. Bổ sung trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục hành
chính
Theo
đó, việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong các
trường hợp sau đây:
-
Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích
cho người khác;
-
Cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới;
-
Để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc;
-
Người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định
của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình;
-
Để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma
túy.
Thời
hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính không quá 12 giờ; trong trường hợp
cần thiết, thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không quá 24 giờ, kể từ
thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm; trường hợp tạm giữ người vi phạm hành
chính ở khu vực biên giới hoặc vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì thời
hạn tạm giữ được tính từ thời điểm người vi phạm được áp giải đến nơi tạm giữ.
Đối
với trường hợp tạm giữ để xác định tình trạng nghiện ma túy thì thời hạn tạm
giữ có thể kéo dài hơn nhưng không quá 05 ngày, kể từ thời điểm bắt đầu giữ
người vi phạm.
6. Nơi lập biên bản vi phạm hành chính
- Luật sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể địa điểm lập biên bản vi phạm hành
chính là phải nơi xảy ra vi phạm hành chính. Trường hợp biên bản được lập
tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền lập biên bản hoặc địa điểm khác thì
phải ghi rõ lý do vào biên bản.
-
Về nội dung biên bản: Luật sửa đổi, bổ sung quy định biên bản phải mô tả vụ
việc, hành vi vi phạm...
-
Thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp không
thuộc thẩm quyền của người lập biên bản: Luật đã quy định cụ thể trong thời hạn
24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản được lập trên tàu bay,
tàu biển, tàu hỏa, người lập biên bản phải chuyển biên bản đến người có thẩm
quyền xử phạt (trước đây chỉ quy định chuyển ngay, không ghi rõ thời gian là
bao lâu).
-
Bổ sung quy định về sửa chữa sai sót biên bản vi phạm hành chính: Trường hợp
biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác
các nội dung thì tiến hành xác minh tình tiết vi phạm.
7.
Trường hợp hoãn thi hành quyết định phạt tiền
Luật
Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định chỉ cá nhân bị phạt tiền từ 03 triệu
đồng trở lên mới được hoãn, tổ chức không được hoãn thi hành quyết định phạt
tiền. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định thêm các trường hợp được
hoãn thi hành quyết định phạt tiền như sau:
+
Cá nhân bị phạt tiền từ 02 triệu đồng trở lên; tổ chức bị phạt tiền từ 100
triệu đồng trở lên;
+
Bổ sung trường hợp cá nhân mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn thì phải có xác nhận
của cơ sở khám, chữa bệnh tuyến huyện trở lên.
+
Đối với tổ chức đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn,
dịch bệnh thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực
tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp.
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm
hành chính được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ
họp thứ 10 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2020. Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 (sau đây gọi là Luật
số 67/2020/QH14).
Luật
số 67/2020/QH14 được thông qua đã đánh dấu một bước phát triển mới trong việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng và hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung.
I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA LUẬT
1. Quan điểm chỉ
đạo xây dựng Luật
1.1. Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách
của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách
hành chính được xác định trong Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính
trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như thể chế hóa những chủ trương mới của Đảng nêu
tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, 6, 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng
cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
1.2. Sửa
đổi, bổ sung các nội dung liên quan trực tiếp đến những khó khăn, vướng mắc chủ
yếu trong thực tiễn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
1.3. Tăng cường tính công khai, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm dân chủ trong quy
định về thủ tục xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân, nhất là người chưa thành niên; nâng
cao hiệu lực, hiệu quả thi hành, áp dụng pháp luật và quản lý công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong thực tiễn.
1.4. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ
thống pháp luật, trọng tâm là pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với pháp
luật về phòng, chống ma túy, pháp luật hình sự; bảo đảm tính tương thích của
các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với các điều ước quốc tế có
liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đặc biệt là một
số công ước quốc tế về quyền con người.
2. Mục tiêu
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục trong pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa những hạn chế, bất cập trong các quy
định của Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC), góp phần bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên
thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.
II. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Bố cục
Luật số 67/2020/QH14 bố
cục thành 03 điều, cụ thể:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (có 75 khoản).
- Điều 2: Sửa đổi, bổ
sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 (đã được sửa
đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14).
- Điều 3: Hiệu lực thi
hành.
2. Nội dung
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142 điều (trong đó 16 điều sửa đổi,
bổ sung toàn diện), sửa kỹ thuật 11/142
điều, bổ sung mới 04 điều, bãi bỏ 03 điều của Luật XLVPHC hiện hành, với những nội dung cơ bản sau đây:
2.1. Những quy định chung
Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số
quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật XLVPHC bao gồm: Sửa đổi, bổ sung quy
định về khái niệm tái phạm (khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC); nguyên tắc
xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính nhiều lần (điểm d khoản 1 Điều 3 của
Luật XLVPHC); thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (Điều 6
Luật XLVPHC); thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính (Điều 4 Luật XLVPHC); hành vi bị nghiêm cấm (Điều
12 Luật XLVPHC), cụ thể:
2.1.1. Về thuật ngữ tái phạm
Giữa
quy định về tái phạm và quy định về vi phạm hành chính nhiều lần tại Điều 2
Luật XLVPHC chưa có sự phân biệt rõ ràng, do vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 2 Luật
XLVPHC về giải thích từ ngữ “tái phạm”, theo đó, tái
phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực
hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đó.
2.1.2. Về xử lý hành vi vi phạm hành
chính nhiều lần
Điểm
d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC quy định: Một người “vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”.
Trong khi đó, điểm b khoản 1 Điều 10 Luật XLVPHC lại quy định: “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình
tiết tăng nặng, theo đó, đây là tình tiết được người có thẩm quyền xem xét khi
quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1
Điều 3 Luật XLVPHC quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi
trong trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”, trừ
trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều
lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng.
2.1.3. Về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính
Liên quan đến thời hiệu
áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Luật số
67/2020/QH14 đã bổ sung điểm đ vào khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC quy định
thời điểm để tính thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong
trường hợp cá nhân bị đề nghị cố tình
trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo đó,
trong thời hạn được quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản này mà cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp
dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm
chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
2.1.4. Về những hành vi bị nghiêm cấm
Luật số 67/2020/QH14 bổ sung một số hành
vi bị nghiêm cấm trong xử lý vi phạm hành chính tại Điều 12 Luật XLVPHC do
trong quá trình thi hành phát sinh trong thực tiễn như: Xác
định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi
phạm hành chính; không
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả.
2.2. Về xử phạt vi phạm
hành chính
2.2.1. Về mức phạt tiền tối đa
trong các lĩnh vực
Mức phạt tiền tối đa
trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định từ năm 2012 (thời điểm ban
hành Luật XLVPHC). Tại thời điểm hiện nay, mức phạt tiền này quá thấp so với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sau gần 08 năm (tính từ thời điểm ban
hành Luật XLVPHC), một số hành vi vi phạm trong các lĩnh vực xảy ra ngày càng
phổ biến, tinh vi, nguồn thu lợi bất hợp pháp là rất lớn, gây hậu quả lớn đến
xã hội, làm thiệt hại kinh tế, thậm chí làm ảnh hưởng tới tính mạng, sức khỏe
của người dân nhưng mức phạt tối đa áp dụng đối với hành vi vẫn chưa tương xứng
với tính chất, mức độ của vi phạm, thiếu tính răn đe và không đủ sức phòng
ngừa, hạn chế vi phạm hành chính mới. Bên cạnh đó, việc bổ sung mức tiền phạt
tối đa tại Điều 24 của Luật XLVPHC đối với một số lĩnh vực mới đã được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đồng ý quy định mức phạt tiền tối đa cụ thể làm căn cứ pháp
lý để Chính phủ quy định trong quá trình thi hành Luật XLVPHC những năm qua
cũng rất cần thiết. Thêm nữa, tên gọi một số lĩnh vực quy định tại Điều 24 của
Luật cũng có sự thay đổi trong các luật được thông qua sau khi Luật XLVPHC được
ban hành nên cũng cần chỉnh sửa cho thống nhất.
Do vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung
theo hướng tăng mức phạt tối đa trong một số lĩnh vực; bổ sung mức phạt tối đa
cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại Điều 24 Luật XLVPHC; chỉnh sửa tên
gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các Luật hiện hành ban hành sau Luật
XLVPHC, cụ thể:
(i) Tăng mức phạt tiền tối đa của 10 lĩnh vực
như:
- Giao thông đường bộ: từ
40 triệu lên 75 triệu.
- Phòng, chống tệ nạn xã
hội: từ 40 triệu lên 75 triệu.
- Cơ yếu: từ 50 triệu lên
75 triệu.
- Quản lý và bảo vệ biên
giới quốc gia: từ 50 triệu lên 75 triệu.
- Giáo dục: từ 50 triệu
lên 75 triệu.
- Điện lực: từ 50 triệu
lên 100 triệu.
- Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng: từ 100 triệu lên 200 triệu.
- Thủy lợi: từ 100 triệu
lên 250 triệu.
- Báo chí: từ 100 triệu
lên 250 triệu.
- Kinh doanh bất động
sản: từ 150 triệu lên 500 triệu.
(ii) Bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của
08 lĩnh vực, như: Đối ngoại; cứu nạn, cứu hộ; an ninh mạng; an toàn thông tin
mạng; kiểm toán nhà nước; cản trở hoạt động tố tụng; bảo hiểm thất nghiệp; in.
(iii) Sửa đổi tên của một số lĩnh vực như:
Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống vật nuôi, cây trồng thành trồng trọt; sản
xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi thành chăn nuôi; dạy nghề thành giáo dục
nghề nghiệp; quản lý rừng, lâm sản thành lâm nghiệp; thăm dò, khai thác dầu khí
và các loại khoáng sản khác thành hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản
khác; hạn chế cạnh tranh thành cạnh tranh; quản lý công trình thủy lợi; bảo vệ
nguồn lợi thủy sản thành thủy sản.
2.2.2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Một
là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung tên gọi và bãi bỏ một số chức danh
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính xuất phát từ việc, hiện
nay, một
số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức bộ máy,
chính vì vậy, cơ cấu, tổ chức, tên gọi
của một số cơ quan, đơn vị cũng như các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính đã có sự thay đổi, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một số chức danh
mới có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước cũng như bãi bỏ
một số chức danh đã được quy định trong Luật nhưng hiện nay không còn thẩm
quyền xử phạt. Theo đó, Luật đã bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt
theo Luật XLVPHC hiện hành như: Cục trưởng Cục Dự trữ khu vực, Tổng cục trưởng
Tổng cục Thống kê, Trưởng ban thi đua khen thưởng Trung ương (Điều 46), một số
chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39) do thay đổi cơ cấu tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ…, đồng thời bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử
phạt như Kiểm ngư viên, Trạm trưởng trạm Kiểm ngư thuộc Chi cục Kiểm ngư vùng,
Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng, Cục trưởng Cục Kiểm ngư (Điều 43a), Chủ
tịch Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (Điều 45a), Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm toán
trưởng (Điều 48a), một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39)
và Quản lý thị trường (Điều 45).
Ngoài ra, Luật đã bổ sung
quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan Thi hành án dân sự. Khoản 5 Điều 49
của Luật XLVPHC quy định thẩm quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự, tuy nhiên Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14) không quy định thẩm
quyền xử phạt của chức danh này nên chưa bảo đảm tính thống nhất. Thực tiễn thi
hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thời gian qua cho thấy, Tổng cục
trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự vẫn thực hiện thẩm quyền xử phạt theo quy
định của Luật XLVPHC. Do vậy, để bảo đảm thống nhất của hệ thống pháp luật, phù
hợp với thực tiễn thi hành, Luật XLVPHC đã bổ sung thẩm quyền xử phạt của Tổng
cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự vào khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành
án dân sự (Điều 2 Luật số 67/2020/QH14).
Hai
là, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa
đổi quy định về thẩm quyền xử phạt của một số chức
danh theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể:
(i) Tăng thẩm quyền phạt tiền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện (điểm b khoản 2 Điều 38) và Giám đốc Công an cấp tỉnh
(điểm b khoản 5 Điều 39) từ 50.000.000 đồng lên
100.000.000 đồng.
(ii) Sửa đổi việc áp dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính của các chức danh từ Điều 38 đến Điều 49 Luật XLVPHC theo
hướng: Bên cạnh thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của
các chức danh là cấp cuối cùng của mỗi lực lượng đã được Luật XLVPHC hiện hành
quy định, Luật bổ sung 08 nhóm chức danh (chủ yếu thuộc các cơ quan được tổ chức
theo ngành dọc ở cấp tỉnh hoặc liên tỉnh) có thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện. Đối
với các chức danh khác ở cấp cơ sở
có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không vượt quá 02 lần mức
tiền phạt theo thẩm quyền.
Ba là, Điều 53 Luật XLVPHC
hiện hành chưa quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của một
chức danh trong một số trường hợp như: có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với
thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi
nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Luật đã sửa đổi, bổ
sung Điều 53 để quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử
phạt có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Theo đó, trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi nhưng không
có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó
được giữ nguyên.
Trường hợp chức danh có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì
thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng
ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bốn là, liên quan đến vấn đề
giao quyền xử phạt vi phạm hành chính,
Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 54 về việc giao
quyền cho cấp phó áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 119 của Luật XLVPHC; đồng thời, quy
định rõ văn bản giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định.
2.2.3. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
So với
Luật XLVPHC hiện hành, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên
quan đến thủ tục xử phạt để bảo đảm tính cụ thể, rõ
ràng, tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn nhằm
tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong
quá trình thi hành Luật XLVPHC thời gian qua, cụ thể:
Một là, hiện nay Luật XLVPHC quy định thời gian tiến hành một số
công việc quá ngắn, chưa phù hợp thực tế, không bảo đảm tính khả thi; thủ tục
thực hiện một số công việc cũng chưa cụ thể dẫn đến sự lúng túng trong quá
trình áp dụng pháp luật (thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính, giải trình…)… Do vậy, Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan nhằm tháo gỡ những
vướng mắc, bất cập kể trên, cụ thể là:
-
Tăng thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3
Điều 60 Luật XLVPHC từ 24 giờ lên 48 giờ.
- Quy định thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều
66 Luật XLVPHC là tương đối ngắn, đặc biệt là khi vụ
việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt. Chính
vì vậy, Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 66
Luật XLVPHC theo hướng,
vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người
có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc,
kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3
Điều 63 của Luật này.
- Bổ sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (Điều 58) theo
hướng quy định nguyên tắc “phải kịp thời lập biên bản”; đồng thời, Luật cũng bổ sung
quy định về việc gửi biên bản vi phạm hành chính, theo đó, biên bản
vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử đối với trường
hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng
điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn
hiện nay.
- Sửa đổi,
bổ sung quy định về các trường hợp và thủ tục giải trình tại Điều 61
Luật XLVPHC.
Hai là, sửa
đổi, bổ sung Điều 64 Luật XLVPHC theo hướng mở rộng
lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi
phạm hành chính. Theo đó, Luật đã bổ sung các lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống ma túy, phòng,
chống tác hại của rượu, bia bên cạnh lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông, bảo
vệ môi trường. Đối với các lĩnh vực khác sẽ do Chính phủ quy định sau khi được
sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, Luật quy định rõ ràng hơn về điều kiện, yêu cầu
trong quản lý, sử dụng, quy định danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật
nghiệp vụ; điều kiện, yêu cầu trong sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được
bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; đồng thời, giao Chính phủ quy
định quy trình chuyển hóa kết quả thu
được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng
cứ để xác định vi phạm hành chính.
Ba là, về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
bị tạm giữ, tịch thu, Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy
định có liên quan đến vấn đề này nhằm khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn như việc xác minh chủ sở hữu phương
tiện, việc xử lý đối với các phương tiện có giá trị thấp hoặc không còn giá trị
rất khó khăn, mất nhiều thời gian; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện đã
quá thời hạn tạm giữ mà không xác định được chủ sở hữu/ người vi phạm hoặc chủ
sở hữu/ người vi phạm không đến nhận; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện do bị
chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch
thu, cụ thể
như sau:
-
Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, khoản 4 Điều 126 đã sửa đổi, bổ
sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn việc thông báo, niêm yết công khai về tang
vật, phương tiện bị tạm giữ (số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài
sản sau khi hết thời hạn thông báo, niêm yết công khai…).
Đồng thời, Luật số 67/2020/QH14 cũng quy định về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài
sản theo quy định của pháp luật dân sự. Theo
đó, đối với trường hợp này thì bên nhận thế chấp được nhận lại tang vật,
phương tiện hoặc trị giá tương ứng với nghĩa vụ được bảo đảm; cá nhân, tổ chức
vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính vào ngân sách nhà nước.
- Đối với tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, để bảo đảm thống nhất với quy định
của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật số 67/2020/QH14 quy định theo hướng viện dẫn: “Tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy
định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 81 Luật XLVPHC), đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật XLVPHC.
2.2.4. Về việc thi hành và cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Để cơ bản giải quyết
những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành và cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung về vấn đề này như sau:
Một là, Luật số 67/2020/QH14 quy định rõ hơn trường hợp không ra quyết xử phạt vi
phạm hành chính nhưng vẫn áp dụng tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định thì không bị coi là đã bị
xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính rõ ràng hơn khi áp dụng pháp luật
tại Điều 65 Luật XLVPHC.
Hai
là, Luật số
67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, giảm, miễn tiền
phạt tại Điều
76
và Điều 77 Luật XLVPHC theo hướng bổ sung quy định tổ chức cũng
được hoãn, giảm, miễn tiền phạt để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho tổ chức/doanh nghiệp
khi gặp khó khăn về tài chính do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ (khoản 37, 38 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14).
Ba là, Luật
XLVPHC chưa có quy định về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, tại Điều 88 Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung quy định cụ thể về thời hạn, thời hiệu thi hành
quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
2.3. Về áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính
2.3.1. Về đối tượng, điều
kiện, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Luật
số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đối
tượng và điều kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại các Điều 90, 92,
94 và 96 Luật XLVPHC để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với BLHS; quy định về độ
tuổi, số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính... bảo đảm phù hợp với thực
tiễn, bảo đảm tính khả thi, cụ thể:
- Quy định cụ thể các hành
vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng”, thống
nhất trong cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Bỏ quy định về việc đối
tượng phải vi phạm “02 lần trong 06 tháng”
là điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc để tránh kéo dài thời gian áp dụng các biện pháp này.
- Bổ sung quy định về việc
áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái
phép chất ma túy (Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã hai lần bị xử
phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm
thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy).
- Sửa đổi quy định về đối
tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng dẫn chiếu đến Luật Phòng, chống ma túy nhằm
bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật.
- Bổ
sung quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với 02 trường hợp: (i)
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã
hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba
trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc,
lừa đảo, đua xe trái phép mà không phải là tội phạm; (ii) người từ đủ 18 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên
bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng,
trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, hành hạ ông bà, cha mẹ,
vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình mà không phải là tội
phạm.
2.3.2. Về thủ tục áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan
đến thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm đơn giản hóa thủ tục,
rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc; sửa đổi các quy định tại khoản 1 Điều 98,
khoản 3 Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều 103 của Luật hiện hành liên
quan đến thủ tục kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính theo hướng:
(i)
Không quy định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập.
(ii)
Không quy định thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của công chức tư pháp - hộ tịch
cấp xã đối với hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thay vào đó, Luật quy định rõ, cơ quan nào lập hồ sơ đề nghị
thì phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ. Bởi vì, thực tế cho thấy quy
định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập không
thật sự cần thiết, làm kéo dài thời gian xem xét, áp dụng.
2.3.3. Về việc quản lý đối
tượng trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
Luật số 67/2020/QH14
sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 131 Luật XLVPHC theo hướng: Đối với người không có nơi cư trú
ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì cơ
quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định: Giao cho trung tâm, cơ sở tiếp
nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương quản lý đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc; giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư
trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý trong trường hợp bị đề nghị áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. Quy định
nêu trên nhằm tháo gỡ vướng mắc của Điều 131 Luật XLVPHC hiện hành do quy định
này hầu như không thể triển khai trong một thời gian dài.
2.4.
Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
2.4.1. Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Điều
122 Luật XLVPHC quy định chỉ được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục
hành chính trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối
trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác. Tuy nhiên, việc quy định
những trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
như Luật hiện hành là tương đối hẹp, gây khó khăn cho việc thi hành Luật
XLVPHC. Do vậy, để bảo đảm tính đầy đủ,
khắc phục bất cập trong thực tế hiện nay, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
người có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật, Luật đã bổ sung vào khoản 1 Điều
122 Luật XLVPHC một số trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục hành chính như:
Để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc; người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định
cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; để
xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy
bên cạnh các trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự
công cộng, gây thương tích cho người khác và cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành
vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
2.4.2.
Về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Một là, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ
sung vào khoản 3 Điều 125 Luật XLVPHC quy định cụ thể: thẩm quyền tạm giữ không
phụ thuộc vào giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Hai là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục tạm giữ
tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại các khoản 4 và 9 Điều
125 Luật XLVPHC theo hướng: (i) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành
chính đang giải quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy
phép, chứng chỉ hành nghề; sau đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên
bản, người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền
tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm
giữ; (ii) Bỏ quy định về việc người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phải ký
vào biên bản tạm giữ.
2.5. Về biện pháp thay
thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Một trong những điểm mới của Luật số 67/2020/QH14 so với Luật XLVPHC hiện hành là việc bổ sung
biện pháp giáo
dục dựa vào cộng đồng là một trong các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối
với người
chưa thành niên (Điều 140a) nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho người
chưa thành niên. Theo đó, giáo dục dựa vào cộng đồng là biện pháp thay
thế xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý
quy định tại Bộ luật hình sự có nơi cư trú ổn định, đang theo học tại cơ sở
giáo dục và cha mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý, giáo dục. Căn cứ vào quy định này, Tòa án
nhân dân quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.
Người chưa thành niên bị áp dụng
biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng được đi học hoặc tham gia các chương trình
học tập hoặc dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ
năng sống tại cộng đồng.
2.6. Về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính
Luật số
67/2020/QH14 đã bãi bỏ quy định về việc
báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ 06
tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo
cáo.
III. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN
1. Về
bảo đảm nguồn nhân lực
Cơ quan, người có thẩm quyền quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm: (i) Bảo đảm đầy đủ cán bộ, công chức có năng lực, trình độ
trong tổng biên chế được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (ii) Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện
nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính; (iii)Thường xuyên rà soát đội ngũ cán bộ, công chức
để điều động, biệt phái cán bộ, công chức có năng lực, trình độ từ các cơ quan
khác sang làm nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khi có yêu cầu.
Cơ quan của người có thẩm quyền quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm ưu tiên sử dụng cán bộ, công
chức được đào tạo và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính được bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng theo
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
2. Về
bảo đảm nguồn kinh phí
Kinh phí bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính do ngân sách nhà nước cấp theo quy định của Luật ngân
sách nhà nước và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Việc sử
dụng kinh phí bảo đảm cho công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính phải đúng mục đích, nội dung, chế độ và định mức chi theo quy định của
pháp luật về các chế độ chi tiêu tài chính. Nội dung chi và mức chi cho công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định
của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
IV. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính
đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội và hội nhập quốc tế”. Trên
cơ sở chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thực hiện việc quy
phạm hóa các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền công dân bằng
các quy định của pháp luật, trong đó có Luật XLVPHC, một đạo luật quan
trọng đối với kinh tế - xã hội và có tác động trực tiếp đến quyền con người,
quyền công dân.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng”.
Các quy định mới của Luật số 67/2020/QH14, điển hình là các quy định về
trình tự thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, các quy định về trình tự, thủ tục
lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng và thi hành các biện pháp xử lý hành
chính… được quy định trên cơ sở chủ trương trên, bảo đảm tính công khai, minh
bạch, rõ ràng, nhằm tạo thuận lợi, dễ dàng cho người dân nhận thức chấp hành
pháp luật và lực lượng chức năng thực thi công vụ trong thực tiễn. Việc sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định của Luật XLVPHC không còn phù hợp và quy định
cụ thể, rõ ràng chế tài xử lý góp phần tích cực trong việc đấu tranh, phòng
chống vi phạm hành chính trong tình hình mới, giúp cho các cá nhân, tổ chức
hiểu rõ hơn về những hành vi vi phạm hành chính, từ đó có những hành vi ứng xử
phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, việc xây dựng một môi trường
pháp lý minh bạch, khách quan, cũng sẽ giúp các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần thay đổi
diện mạo của nên kinh tế ở nước ta.
Bên cạnh đó, các quy định mới của Luật cũng bảo đảm thực hiện các cam
kết quốc tế về quyền con người, tiến tới các chuẩn mực quốc tế về quyền con
người theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, đặc biệt là các quy định về
áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính, các quy định liên quan đến người
chưa thành niên vi phạm hành chính.
Mặt khác, việc quy định trình tự thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ, rõ ràng
cũng đã khắc phục được những sai sót trong quá trình áp dụng Luật từ đó góp
phần hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức, tạo niềm tin
trong nhân dân. Điều này góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản
lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Đây cũng là nhân tố quan
trọng bảo đảm thực thi pháp luật xử lý vi phạm hành chính nghiêm túc, thống
nhất, chính xác, hiệu quả, bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã được Hiến pháp quy định.
V. TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT
Để triển khai Luật, các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan cần
tập trung thực hiện một số công việc sau:
1. Tổ chức triển khai thi hành
Luật
Trong phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực, địa bàn, các Bộ, ngành, địa
phương có trách nhiệm tổ chức triển khai, quán triệt nội dung của Luật số
67/2020/QH14 đến cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt; cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; cơ quan, người có thẩm quyền quản
lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
2. Tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật và
các văn bản hướng dẫn thi hành
- Tổ chức tuyên truyền,
phổ biến Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành trên các phương tiện
thông tin đại chúng và các hình thức khác phù hợp với tưng đối tượng, địa bàn
nhằm nâng cao trách nhiệm, nhận thức của Nhân dân, nhất là đối với đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác xử lý vi phạm hành chính.
- Nghiên cứu, xây dựng một
số chuyên đề về Luật XLVPHC đăng trên tạp chí, báo để tuyên truyền, phổ
biến các nội dung mang tính chuyên sâu.
3. Rà soát, xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ban hành mới các văn bản
quy phạm pháp luật để phù hợp với Luật
3.1. Rà soát, xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi
bỏ các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Luật
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan thực hiện
việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và đề xuất để sửa đổi,
bổ sung, thay thế bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Luật.
Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành sửa đổi, bổ sung,
thay thế, bãi bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền hoặc
trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ
sung, thay thế, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Luật số
67/2020/QH14.
3.2. Xây dựng, trình Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính
Việc xây dựng, trình Chính phủ ban hành hệ thống các nghị định quy định
chi tiết thi hành Luật XLVPHC là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết nhằm
hoàn thiện thể chế, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần triển khai thực
hiện việc xây dựng, trình Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật XLVPHC trong năm 2021 để có hiệu lực thi hành cùng thời điểm với Luật
số 67/2020/QH14.
4. Tổ chức tập huấn chuyên sâu
và bồi dưỡng nghiệp vụ xử lý vi phạm hành chính
Thực hiện việc tổ chức tập huấn chuyên sâu và bồi dưỡng nghiệp vụ chung
cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác xử
lý vi phạm hành chính ở các cơ quan Trung ương và địa phương. Các cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương tổ chức tập huấn chuyên sâu và bồi dưỡng nghiệp vụ xử lý vi phạm
hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý
công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và đội ngũ cán bộ, công
chức trực tiếp làm công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoặc địa
bàn thuộc quyền quản lý của mình.
5. Kiểm tra công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
Nghị định số 19/2020/NĐ-CP ngày 12/02/2019 của Chính phủ về kiểm tra,
xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực
kể từ ngày 31/3/2020. Đây là một bước tiến lớn trong quản lý công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Để triển khai thi hành Luật hiệu quả,
thống nhất trong phạm vi toàn quốc thì việc tăng cường hoạt động kiểm tra công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định số
19/2020/NĐ-CP có vai trò hết sức quan trọng. Do vậy, các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương thực hiện nhiệm vụ tăng cường kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính./.
|