·
Cam Vinh
·
Cháo lươn Vinh
·
Món hến
Canh hến là đặc sản có vị
đậm đà không thể thiếu trong những bữa cơm trưa hè. Thông thường người ta xào
ruột hến thật thơm bỏ vào nước hến cùng với món rau nào đó, mà thường là các
loại rau vặt như: rau bầu, rau lang, mồng tơi, rau dềnh, rau muống, v.v. thành
một món canh rất ngọt, giàu vitamin và khoáng chất, đặc biệt là rất mát.
Bên cạnh món canh hến du
khách còn có thể dùng món hến xúc bánh tráng. Hến được xào với mỡ hành, rắc
thêm rau thơm và một ít lạc rang giã dập cùng vài lát ớt cắt mỏng ăn với bánh
tráng là một món ăn ngon lý tưởng.
·
Chả rươi
Rươi là thức ăn nhiều đạm.
Du khách có thể ăn rươi với trứng gà mà người dân nơi đây gọi là chả rươi hoặc
ăn canh rươi, mắm rươi.. đến mùa rươi người ta còn có thể phơi khô ăn dần.
Chả rươi được chế biến hết
sức công phu: rươi rửa thật sạch, đun nước sôi cho vào chần, xong để ráo nước
mới lấy đũa đánh xáo rươi thật nhuyễn. Làm chả rươi cần 200 gam rươi, khoảng 3
quả trứng, 200 gam thịt lợn nạc, băm nhuyễn cộng thêm gia vị: lá gừng, hành
hoa, thì là, vỏ quýt (thái nhỏ). Tất cả đánh nhuyễn, đổ vào dầu thực vật tao
già, đun nhỏ lửa. Chả rươi có vị ngọt đậm đà, béo ngậy, có mùi vị riêng được
nâng lên nhờ hoà quyện với mùi vỏ quýt. Tạo nên hương vị quê hương đặc trưng
của thành Vinh - xứ Nghệ.
Còn nếu muốn làm mắm rươi
thì đơn giản hơn chả rươi. Rươi được làm sạch, bỏ muối theo tỷ lệ vừa phải xóc,
ướp khoảng 10 ngày, sau đó đem phơi nắng, cho gia vị chủ yếu là vỏ quýt trộn
đều, ủ trong liễn hoặc đóng trong vại… mắm rươi dùng chấm rau sống, đặc biệt là
thịt lợn luộc rất ngon.
·
Nộm chợ Vinh
Nói nộm chợ Vinh tức là nói
món nộm được bán ở các chợ tại thành phố Vinh. Như chúng ta đã biết, có nhiều
món nộm khác nhau: nộm đu đủ, nộm hoa chuối, nộm khế, nộm cà, nôm mướp đắng.
Tại chợ Vinh còn có nộm măng, nộm dưa chuột, nộm rau muống, nộm xu hào, nộm
thập cẩm, nôm củ chuối... ở đây xin nói về nộm thập cẩm.
Nguyên liệu gồm: đu đủ, hoa
chuối, giá đỗ, khế xanh. Đu đủ xanh gọt vỏ, nạo thành từng sợi như sợi miến;
hoa chuối cũng phải thái thành sợi nhỏ, hai thứ này trộn đều, xoa qua loa rồi
ngâm với nước muối loãng. Vớt ra, rảy cho khô nước, bỏ trong xoong, thái quả
khế xanh thành những lát mỏng, lấy ít giá đỗ bỏ vào tất cả trộn đều cùng với
các loại gia vị sau: một ít giấm chua (nếu nhiều khế thì thôi), một ít đường,
một ít ớt cay, lá chanh thái nhỏ, lá húng quế cũng thái nhỏ, một ít lạc rang
giã dập, bột canh, mỳ chính, tổng cộng chín loại gia vị cả thảy. Khi ăn sẽ có
cảm giác bùi bùi, chua chua, cay cay, mằn mặn, ngọt ngọt, khá hấp dẫn. Màu sắc
đĩa nộm có đủ màu đỏ của ớt, màu xanh của lá chanh, húng quế; màu trắng của đu
đủ, giá đậu, màu vàng nhờ nhỡ của hoa chuối.... Thế đã ngon lắm rồi, có người
muốn cho ngon hơn. Họ mua bì lợn, luộc chín, thái nhỏ như tăm trộn vào.
Bữa ăn hàng ngày trên mâm
cơm gần như nhà nào cũng có. Đó là món ăn dân dã, ngon miệng, dễ làm mà người
dân thành Vinh ưa thích.
·
Nước chè xanh
Ai đã từng về Vinh đều có
lẽ không thể bỏ qua bát nước chè xanh xứ Nghệ. Chè xanh ở đây có thể nói là
không chê vào đâu được. Nhưng để có được bát nước như vậy quả là phải có kỹ
thuật từ chọn chè đến cách om cách nấu.
Trước hết, người ta chọn
thứ lá chè dày và mơn mởn (không già quá mà cũng không non quá). Nếu già quá
thì nước bầm đen trông không ngon, không thơm. Nếu chè non quá thì nước chóng
nhạt, không đượm. Nước nấu chè phải là thứ nước ngòn ngọt. Thường là nước mưa
hay nước giếng đá sỏi thì nước mới ngọt. Nấu chè thường dùng nồi bù hay ấm đất.
Nhận chè vào phải đúng kỹ
thuật, không vò nát chè, mà cũng không để nguyên lá chè vì lâu ngấm mà phải vò
nhè nhẹ, tỉa nhặt những lá vàng, lá sâu. Lửa nấu nước chè là lửa đỏ đều, không
to quá mà cũng không nhỏ quá. Củi nấu nước phải dùng thứ củi nấu không làm phai
mất vị nước chè như: củi bạch đàn, củi xoan đâu, củi tre...
Khi nồi nước chè đã sôi,
lấy gáo nhận chè cho chìm xuống, sau đó đổ thêm vài ba gáo nước lã vào rồi hạ
lửa. ít phút sau đó sẽ có ấm nước chè vừa chát, vừa thơm, vừa nóng, vừa xanh.
Những người nghiện nước chè
xanh thường nói vui là uống nước "năm cho" nói trệch là "năm
trò" tức là: cho chát, cho xanh, cho thơm, cho nóng, cho vui. Nước chè
ngon là nước chát, uống vào lúc đầu nghe chát, ngấm vào thấy ngòn ngọt thật
khoái miệng. Nước chè vừa ngọt vừa có màu xanh nái trông thật sướng mắt. Hương
nước chè xanh bốc lên nghe thoang thoảng mùi chè xanh khá hấp dẫn. Khi uống
phải đông mới vui, vừa uống vừa nói chuyện thì thật là lý tưởng. Người nghiện
chè xanh sáng sớm chưa ăn gì, không chỉ uống 3 - 4 bát cho tỉnh người rồi đi
làm việc. Có người đau lưng, mỏi gối vì lao động mệt nhọc, họ pha mật mía với
chè xanh đặc uống vào thấy khoẻ người ngay.
·
Kẹo Cu Đơ
Người xứ Nghệ nói đến chè
xanh mà không nhắc đến kẹo cu đơ thì quả là thiếu sót. Vậy keo Cu Đơ như thế
nào và tại sao gọi là kẹo Cu Đơ?
Theo nhiều người kể, Cu Đơ
là một nhân vật vốn có tên là cu Hai. Vì số 2, tiếng Pháp gọi là "
đơ" (deux) do đó người ta gọi đùa ông là Cu Đơ, để đối chọi một cách
nghịch ngợm với cái tên Đờ - cu (Decoux) - viên toàn quyền bại trận ở Đông
Dương thời Đại chiến thế giới thứ hai, vốn dĩ mang cái chất thiếu thanh lịch
khi nghe gọi qua ngôn ngữ Việt Nam.
Cu Hai, người Hương Sơn nấu
kẹo lạc vào hồi sơ tán lần thứ nhất, để bán tại một quán nước chè xanh do ông
bán. Sáng kiến của ông là dùng bánh tráng thay cho miếng giấy lót dưới kẹo lạc
mà mỗi lần ăn phải bóc bằng tay. Sáng kiến này tuy đơn giản nhưng rất quan
trọng, vừa sạch sẽ, vừa đỡ mất công bóc giấy mà ăn lại vừa ngon, giòn, rất
khoái khẩu. Từ đó nhiều hàng kẹo khác bắt chước và cái tên Cu Đơ được chấp nhận
như tên một nhãn hiệu.
Khách xa về thăm quê vừa
nhâm nhi kẹo Cu Đơ vừa uống nước chè xanh mới thấy tuyệt. Vị ngọt của kẹo, vị
thơm của chè xanh, đượm chát, vị bùi của hạt lạc....Tất cả quyện vào nhau tạo
nên hương vị đặc trưng của Thành Vinh - Xứ Nghệ.
|